- 23/08/2023
- Lượt xem: 125
- Tác giả: Cửa Lưới Hải Phát
Quá trình tăng trưởng của loài muỗi
Quá trình tăng trưởng của loài muỗi là vòng đời được chia thành bốn giai đoạn là trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng thành. Ba thời kỳ đầu sống dưới nước, còn trưởng thành sống trên cạn.
1. Trứng
Trứng muỗi có thể được đẻ ở ba vị trí khác nhau trên mặt nước. Gần mặt nước hoặc trong nước tùy theo các loài khác nhau. Chẳng hạn như Anopheles và muỗi nhà trên mặt nước và muỗi Aedes trên mặt nước. Anopheles và muỗi nhà nở trong khoảng hai ngày. Trong khi Aedes nở sau ba đến năm ngày.
Muỗi cái đẻ trứng trong nước tù đọng. Trứng muỗi nhỏ, dài chưa đến 1mm. Trứng muỗi Anopheles có hình thuyền, hai bên có túi nổi. Sau khi đẻ trứng nổi trên mặt nước. Trứng muỗi Culex có hình nón, không có túi nổi, dính vào nhau tạo thành bè trứng sau khi đẻ. Trứng Aedes thường có hình ô liu. Không có túi nổi và chìm xuống đáy nước riêng lẻ sau khi sinh sản. Trứng muỗi phải ở trong nước mới nở và ấu trùng thường nở sau 2 đến 3 ngày vào mùa hè.
2. Ấu trùng
Ấu trùng của muỗi được gọi là ấu trùng. Ấu trùng thở bằng ống hút. Ăn chất hữu cơ và vi sinh vật, và lông tạo ra dòng nước chảy vào miệng. Giai đoạn này kéo dài khoảng 10 đến 14 ngày và trở thành nhộng sau 4 lần lột xác. Ấu trùng mới nở dài khoảng 1,5mm, chia thành 4 lứa. Sau 3 lần lột xác, khi trở thành ấu trùng lứa 4. Chiều dài cơ thể có thể tăng gấp 8 lần so với ấu trùng lứa 1. Cơ thể ấu trùng được chia thành ba phần: đầu, ngực và bụng. Mỗi phần được bao phủ bởi lông hoặc búi.
Đầu có râu, mắt kép và một cặp mắt một mí, phần miệng đang nhai. Hai bên có lông bàn chải mảnh và dày. Bàn chải miệng xoay nhanh dùng để nuốt thức ăn trong nước. Ngực hơi vuông và không phân thùy. Bụng thon, có 9 đốt lộ rõ. 7 đốt đầu có hình dạng tương tự nhau. Mặt sau của đốt thứ 8 có lỗ khí và lỗ thở hoặc ống thở mảnh. Là cơ sở quan trọng để phân loại ấu trùng.
Muỗi Culex có ống thở dài và mỏng, trong khi muỗi Aedes có ống thở dày và ngắn. Muỗi Anopheles không có ống thở nhưng có lỗ thở. Và lông hình lòng bàn tay (lông nổi) ở mặt sau của mỗi đốt bụng, có một lỗ nổi. tác dụng. Trong điều kiện nhiệt độ 30°C và đủ thức ăn. Giai đoạn ấu trùng phát triển trong khoảng 5-8 ngày và lột xác 4 lần để trở thành nhộng.
3. Nhộng
Theo cấu tạo chi tiết của muỗi nhìn từ bên cạnh, nó có hình dấu phẩy, hai bên ngực và lưng có một đôi ống thở. Đây là cơ sở quan trọng để phân loại (Hình 18-3). Nhộng muỗi không kiếm ăn, nhưng chúng có thể bơi trong nước. Thở bằng cặp góc thở đầu tiên, thường nằm trên mặt nước và nhanh chóng lặn xuống nước khi bị quấy rầy. Sức đề kháng của nhộng rất mạnh, trong điều kiện thiếu nước. Chỉ cần giữ ẩm, nhộng vẫn có thể phát triển thành muỗi trưởng thành. Hoàn toàn trưởng thành trong hai ngày.
4. Muỗi trưởng thành
Muỗi trưởng thành mới xuất hiện phát triển trong 1 đến 2 ngày, nghĩa là chúng có thể giao phối, hút máu và đẻ trứng. Thời gian phát triển từ trứng thành muỗi trưởng thành phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhiệt độ, thức ăn, môi trường, trong điều kiện thích hợp khoảng 9 đến 15 ngày, mỗi năm có thể sinh sản 7 đến 8 lứa.
Muỗi mới sinh không thể cất cánh (bùng nổ) cho đến khi cánh của chúng cứng lại. Trong vòng 24 giờ sau khi nổ tung, tất cả muỗi đực đều quay ngược 180° sau đốt bụng thứ tám để hoàn thành tư thế giao phối. Hành động giao phối khác nhau tùy theo loài và một số hình thành cột muỗi trên cánh đồng trống vào lúc hoàng hôn để nhảy theo nhóm.
Các cột muỗi không nhất thiết chỉ gồm một loại muỗi đực mà thường là một số loài muỗi khác nhau. Lúc này, khi thấy muỗi cái nhảy múa theo đàn, chúng bay đến gần cột muỗi để giao phối với muỗi đực cùng loài rồi bỏ đi. Giao phối thường mất 10-25 giây.
Muỗi cái chỉ giao phối một lần trong đời, sau khi giao phối, chất dịch do tuyến phụ của con đực tiết ra tạo thành một nút giao phối trong lỗ giao phối của con cái, nhưng nó sẽ dần dần tan ra và biến mất hoàn toàn sau khoảng 24 giờ. Chúng chỉ giao phối một lần trong đời và những quả trứng được đẻ ở đời sau (sau hơn 100 ngày) vẫn có thể được thụ tinh.
Các đặc điểm phân biệt chính của từng giai đoạn trong lịch sử cuộc đời của Anopheles, Culex và Aedes:
Trứng | Ấu trùng | Nhộng | Muỗi trưởng thành | |
Muỗi anopheles | Hình thuyền
Có các túi nổi, rải rác, thường xếp thành đám, nổi trên mặt nước |
Không có ống thở, có van; có lông cọ; song song với mặt nước khi đứng yên |
Ống thở dày và ngắn, hình phễu, miệng rộng, có rãnh sâu; Cơ thể chủ yếu là màu nâu xám |
Các xúc tu của con đực và cái có cùng chiều dài với mỏ, hai đầu của muỗi đực phình ra và có hình chùy, cánh thường có màu trắng đen, ở chân có vòng màu trắng. Khi nghỉ ngơi, cơ thể thẳng hàng với mỏ và ở một góc so với bề mặt hạ cánh |
Culex | Hình nón Không có nang nổi, bè trứng tích hợp, nổi trên mặt nước |
Ống thở dài và mảnh, có nhiều cặp lông thở; không có lông cọ; Đầu cúi xuống một góc so với mặt nước khi đứng yên |
Ống thở mảnh, hình ống, miệng nhỏ và không có vết nứt; Cơ thể chủ yếu là màu nâu |
Xúc tu của muỗi cái rất ngắn, ngắn hơn nửa mỏ, trong khi muỗi đực dài hơn mỏ, phần lớn cánh không có đốm trắng đen, phần lớn bàn chân không có vòng trắng; Khi nghỉ ngơi, cơ thể tạo một góc với mỏ và cơ thể song song với bề mặt hạ cánh |
Muỗi Aedes | Hình ô liu Không có nang nổi, phân tán, chìm xuống đáy |
Ống thở ngắn, dày, có 1 cặp lông ống thở; không có lông cọ; Culex |
Chiều dài của ống thở khác nhau, miệng xiên hoặc hình tam giác và không có vết nứt; cơ thể màu đen |
Muỗi cái có râu giống muỗi Culex, muỗi đực dài bằng mỏ, cánh không có đốm trắng đen, ở chân có vòng trắng; Culex |